Những gì chúng ta giữ được trong các kho lưu trữ hoặc các thư viện ngày nay có thể chỉ là một phần rất nhỏ của tư liệu châu Âu thời Trung cổ. Điều này rất có thể sẽ dẫn đến những nhìn nhận sai lệch về các nền văn hóa, không đánh giá đúng mức về sự đa dạng của các nền văn hóa trong quá khứ
Những gì chúng ta giữ được trong các kho lưu trữ hoặc các thư viện ngày nay có thể chỉ là một phần rất nhỏ của tư liệu châu Âu thời Trung cổ. Điều này rất có thể sẽ dẫn đến những nhìn nhận sai lệch về các nền văn hóa, không đánh giá đúng mức về sự đa dạng của các nền văn hóa trong quá khứ
Không có mô tả nào về thành tựu tri thức vào đầu thời Trung cổ là hoàn chỉnh nếu không đề cập đến sự phát triển trong giáo dục. Sau thời gian trị vì của Theodoric, hệ thống các trường học nhà nước của La Mã cổ đại nhanh chóng biến mất. Trong một số thành phố Ý, trường học trong thành phố vẫn còn tồn tại thậm chí vào cuối Thời kỳ Phục hưng, nhưng trong khắp phần còn lại của Tây Âu, trên thực tế tu viện là cơ sở giáo dục độc quyền. Người xây dựng tu viện như các cơ sở học tập là Cassiodorus trước đây là thư ký trưởng của vua Theodoric.
Sau khi nghỉ hưu, Cassiodorus xây dựng tu viện trên thái ấp của tổ tiên ở vùng Apulia, và yêu cầu các giáo sĩ chép tay bản thảo. Tiền lệ do ông xác lập dần dần được tất cả các cơ sở thuộc dòng tu Benedictine nổi tiếng theo. Cassiodorus cũng nhấn mạnh rằng giáo sĩ của ông nên được đào tạo để trở thành học giả, vì mục đích này, ông soạn thảo một chương trình giảng dạy gồm 7 môn, được gọi là Bảy môn Nghệ thuật tự do. Những môn học này do Boethius chia thành trivium và quadrivium. Trivium gồm ngữ pháp, tu từ học và luận lý học, được cho là các môn học chủ yếu đối với kiến thức, trong khi quadrivium gồm các môn mang nội dung cụ thể hơn – số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc.
Sách giáo khoa sử dụng trong các trường học tu viện nói chung là các sách cơ bản ở cấp tiểu học. Tuy nhiên, trong một số trường học nổi tiếng nhất, người ta nghiên cứu các bản dịch tác phẩm logic của Aristotle. Nhưng không có nhiều người dành sự chú ý cho các môn khoa học phòng thí nghiệm, và môn lịch sử cũng bị xem thường.
Không hề có sự đào tạo chuyên ngành bất kỳ, ngoại trừ các nghề phục vụ Giáo hội. Lẽ dĩ nhiên, học vấn là đặc quyền dành cho vài người, quần chúng nói chung không được học, ngoại trừ những gì họ có được một cách tình cờ, ngay cả hầu hết các thành viên trong giới quý tộc thế tục cũng là người mù chữ. Tuy nhiên, cùng với tất cả những khiếm khuyết này, hệ thống giáo dục này đã giúp nền văn hóa châu Âu thoát khỏi sự sụp đổ hoàn toàn. Và điều cũng đáng nhớ là các trường học tu viện và nhà thờ nổi tiếng nhất – nhất là ở Yarrow và York, Anh tạo ra sức đẩy chính cho đợt phục hồi kiến thức đầu tiên diễn ra vào cuối thời Trung cổ.
Thật ra, trường phái triết học ngoại giáo duy nhất ở châu Âu đầu thời Trung cổ là trường phái của những người theo thuyết Plato Mới, học thuyết của họ được đề cập trong chương trước. Tuy nhiên, có một nhà tư tưởng khác, không thể phân loại là tín đồ Kitô giáo hay dân ngoại đạo, hoàn toàn có lẽ vì ông là một tín đồ Kitô giáo, mặc dù ông không hề có sự ám chỉ nào đối với Giáo hội hoặc tên Đức Kitô trong tác phẩm chính của mình.
Tên của người này là Boethius, sinh khoảng 480 trong một gia đình quý tộc, Boethius sau cùng trở thành cố vấn chính cho Theodoric, vua Ostrogothic. Sau này ông bất hòa với nhà vua, bị buộc tội phản bội, rồi bị tống giam. Năm 524 ông bị xử tử. Tác phẩm triết học chính của Boethius, ông viết lúc bị giam trong lao tù, tựa đề The Consolation of Philosophy. Chủ đề xuyên suốt tác phẩm này là mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, trong đó tác giả đề cập đến những vấn đề như định mệnh, sự cai trị thế giới của thần thánh, và sự đau khổ của cá nhân.
Sau khi cẩn thận đánh giá từng khái niệm về định mệnh, ông đi đến kết luận rằng hạnh phúc thật sự đồng nghĩa với hiểu biết triết lý rằng vũ trụ thật ra là điều tốt, và điều xấu chỉ mang tính chất biểu kiến. Nêu rõ rằng con người phải chịu những thôi thúc bạo lực hoặc là do đau khổ dằn vặt của sự ăn năn hoặc nhận thấy bản thân mình là nô lệ của sự giận dữ, ông chứng minh rằng thói hư tật xấu không phải là không bị trừng phạt cũng như không phải đức hạnh luôn được tưởng thưởng.
Mặc dù rõ ràng ông chấp nhận sự bất tử của linh hồn, nhưng ông không ám chỉ một niềm tin Kitô nào dứt khoát như một nguồn an ủi. Thái độ của ông về cơ bản là thái độ của người theo Chủ nghĩa khắc kỷ, mang màu sắc thuyết huyền bí Plato Mới. Một vài chuyên luận về triết học ở châu Âu thời Trung cổ phổ biến hơn Consolation of Philosophy của Boethius. Không những sau cùng nó được dịch thành tất cả các thứ tiếng địa phương mà còn rất nhiều phóng tác lấy nó làm cơ sở.
Lịch sử văn học vào đầu thời Trung cổ mang đặc điểm, trước hết là giảm sự quan tâm đối với các tác phẩm văn học Hy-La cổ điển và sau này do sự phát triển tính độc đáo sau cùng mở đường cho sự phát triển truyền thống văn học mới. Vào thế kỷ 5, sở thích tác phẩm văn học hay bằng tiếng Latin bắt đầu giảm. Một số giáo sĩ Kitô được hưởng nền giáo dục trong các trường học ngoại giáo có khuynh hướng bào chữa cho sự gắn bó của mình đối với tác phẩm Hy-La cổ điển, những người khác lên án chúng công khai, nhưng quan điểm thịnh hành là quan điểm của Thánh Augustine.
Vị tổng giám mục xứ Hippo này tuyên bố rằng con người nên tiếp tục nghiên cứu tác phẩm văn học Hy-La cổ điển ngoại giáo, không phải vì giá trị mỹ học hay sự hấp dẫn đối với con người, mà là “nghiên cứu bằng một quan điểm làm cho tài dí dỏm trở nên sắc sảo hơn và thích hợp hơn trong việc tìm hiểu sự huyền bí trong Lời Chúa”9. Ngôn ngữ Latin cũng bị tác động bởi sự man rợ hóa văn hóa dần dần. Nhiều nhà thần học dường như nghĩ rằng đối với tín đồ Kitô giáo việc viết quá hay là thái độ không kính Chúa.
Khi biên soạn các bài bình luận về Kinh Thánh, Đức giáo hoàng Gregory I thú nhận ông cho rằng điều vô cùng không thích hợp khi “ràng buộc Lời Tiên tri trên trời” với các quy tắc ngữ pháp. Do đó, tiếng Latin thời Trung cổ sau cùng bị sai lạc do sự nhầm lẫn bất lực trong thay đổi cú pháp và cách viết chính tả, cũng như việc đưa vào nhiều từ mới trong lời thoại thông dụng thường ngày.
Gần cuối giai đoạn, các thứ tiếng địa phương, phát triển chậm từ sự pha trộn các phương ngữ của các bộ tộc man rợ, bổ sung một số thành phần trong tiếng Latin, bắt đầu được sử dụng trong việc thể hiện thi ca ở dạng thô. Kết quả là sự phát triển văn học mới, đầy sức sống, có được sức đẩy trọn vẹn khoảng thế kỷ 13.
Minh họa nổi bật nhất trong văn học bản địa này là trường ca sử thi Beowulf của người Anglo-Saxon. Lần đầu tiên được thể hiện ở dạng thành văn khoảng thế kỷ 8, bài thơ này kết hợp các truyền thuyết xa xưa của nhiều tộc người German ở tây bắc châu Âu. Đây là truyện kể về cuộc đấu tranh, các chuyến đi biển, cuộc mạo hiểm dũng cảm chống lại rồng và các thế lực tự nhiên. Bối cảnh của trường ca là trời, nhưng tác giả dựa vào trường ca một số tính chất thuộc chủ nghĩa duy tâm Cơ Đốc.
Beowulf rất quan trọng, không những là một trong số các tiêu bản đầu tiên trong thi ca của người Anglo-Saxon hay người Anh cổ, mà còn là bức tranh mô tả xã hội Anh và tổ tiên của họ vào đầu thời Trung cổ. Phần lớn số minh họa còn lại về văn học phổ biến trong thời kỳ này cũng được viết bằng tiếng Anh cổ, gồm các bài tụng ca Caedmon và rất nhiều khúc bi thương mô tả đức hạnh nguyên thủy trong nền văn hóa man rợ ban đầu. Nhưng không có mô tả nào về văn học bản địa trong thời kỳ này là mô tả hoàn chỉnh nếu không đề cập một số thành tựu của người Ireland.
Ireland cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7, trải qua một “Thời kỳ Phục hưng” rực rỡ làm cho đất nước này trở thành một trong những điểm sáng nhất trong cái gọi là Đêm trường Trung cổ. Không hưởng lợi từ ảnh hưởng trong văn hóa Latin, các giáo sĩ và thi sĩ Ireland viết nhiều câu chuyện kể về các chuyến mạo hiểm tưởng tượng trên bộ và trên biển, cùng hàng trăm bài thơ hoa mỹ, thể hiện sự hiểu biết đồng cảm với nhân tính.
Ngoài tác phẩm thần học ra, thành quả hàng đầu của các tác gia sáng tác bằng tiếng Latin vào đầu thời Trung cổ là lịch sử: Orosius, Gregory thành Tours và Bede. Theo yêu cầu của Thánh Augustine, một linh mục Tây Ban Nha tên Orosius viết quyển Seven Books against the Pagans.
Nổi tiếng không phải là do tính chính xác hoặc sự quyến rũ văn học, tác phẩm này là lịch sử thế giới cho thấy nhiều thiên tai giáng xuống các dân tộc cổ đại là do kết quả của tính chất đồi bại.
Giám mục Gregory thành Tours, một người gần cùng thời với Clovis, cũng sáng tác với quan điểm bênh vực niềm tin. Trong quyển History of the Franks ông tha thứ những kẻ mưu sát Clovis với lý do họ tận tâm phụng sự Giáo hội. Mặc dù tác phẩm của ông chứa đựng thông tin thú vị về các sự kiện diễn ra trong thời đại của mình, nhưng trong giải thích ông đưa vào phép màu của thánh tích và ông thường có khuynh hướng giải thích mọi sự kiện xảy ra theo cách siêu nhiên.
Hay nhất trong số các tác phẩm lịch sử đầu thời Trung cổ là Ecclesiastical History of the English Nation của Phó Giáo chủ Bede. Bede, một giáo sĩ người Anh, sống từ năm 673 đến 735. Quan tâm đến nghiên cứu học thuật hơn là thiền định mộ đạo, ông theo đuổi việc nghiên cứu của mình chuyên cần đến mức người ta xem ông như một trong số những người học thức nhất trong thời đại.
Trong khi sưu tầm tài liệu lịch sử, ông rất cẩn thận đối với các nguồn. Ông không ngần ngại bác bỏ lời phát biểu của một số nguồn có uy tín nhất khi ông nhận thấy trong lời phát biểu ấy có sự nhầm lẫn, và khi chứng cứ chỉ là lời khẩu truyền, thì ông cũng thành thật ghi chú rõ.